Kích thước :
- Tượng La Hán ngồi cao 1m5
- Tượng La Hán đứng cao 1m7
Chất liệu: Đá xám mịn nguyên khối
Danh mục: Tôn Tượng La Hán, Tượng Đá Phật Giáo
Lưu ý: Sản phẩm được đặt theo yêu cầu về kích thước và chất liệu đá khác nhau.Quý khách vui lòng liên hệ để được chúng tôi tư vấn rõ hơn về chi tiết sản phẩm
Tượng 18 vị La Hán
- Tượng 18 vị La hán thường dùng để thờ tại nhiều chùa chiền tại Việt Nam. Các mẫu tượng 18 vị La Hán thường được đặt thờ chung cả 18 vị trong các chùa, ngoài ra có thể mỗi vị sẽ được thờ riêng tùy vào sở thích thẩm mỹ của mỗi người. Trong nghệ thuật các vị La Hán thường được thể hiện ở 3 loại hình: tượng, tranh vẽ và phù điêu.
Mỗi vị La Hán thường có những cử chỉ, nét mặt khác nhau, tư thế đứng đặt tả những tính cách tu hành riêng biệt nên mỗi người thờ riêng các vị cũng có sở thích thẩm mỹ riêng của họ, đó là nét đặc trưng thú vị khi thờ các vị La Hán. - Nét độc đáo của các mẫu tượng 18 vị La Hán đẹp chính là ở các tư thế, hình dáng, nét mặt, cử chỉ nội tâm của các vị, mỗi vị mang một vẻ rất sinh động và gần gũi: vị ngồi, vị đứng, vị chau mày… thể hiện sự tôn nghiêm và cao quý. Mỗi người có một thế tu, chân tu để hóa thánh riêng. Các vị đã trở thành hình tượng nghệ thuật được sáng tác cả trong thơ, nổi tiếng với bài thơ “Các vị La Hán chùa Tây phương”.
- Đá Mỹ Nghệ Minh Quân chuyên điêu khắc, kinh doanh, bán sỉ và lẻ các mặt hàng đá mỹ nghệ, đá mỹ nghệ phong thủy. Sản phẩm của Đá mỹ nghệ Non Nước Đà Nẵng của chúng tôi rất phong phú về kiểu dáng, kích thước, tiêu biểu như tượng nghệ thuật, tượng phật, tượng chúa, tượng linh vật, tượng rồng, kỳ lân, sư tử, tỳ hưu, đồ trang sức, trang trí bằng đá và quà lưu niệm. Nhận đặt hàng, điêu khắc và thiết kế theo yêu cầu. Vận chuyển và lắp đặt tận nơi.
1. Tôn giả Ca Diếp (Mahakasyapa).
- Theo tích truyện Phật giáo, Tôn giả Ca Diếp là con một gia đình Bà La Môn, song từ bỏ dòng dõi để tu theo Phật. Trước khi xuất gia, ông làm thợ kim hoàn, nên tượng ông có đeo nhiều trang sức.
2. Tôn giả A Nan (Ananda).
- Tổ A Nan là người nhớ và đọc lại tất cả kinh Phật, nên được tạc trong tư thế ôm bộ kinh sách. Ông là tượng trưng của các vị thánh hiền truyền giáo. Tên gọi A Nan có nghĩa là vui mừng, hoan hỉ. Vì vậy khuôn mặt của ông mang nụ cười hể hả biểu hiện bản chất của tên gọi này. Trong 18 vị La Hán của chùa Tây Phương, Tổ Ca Diếp cùng Tổ A Nan được đặt ngay trên bàn thờ chính điện, 16 vị còn lại bày trong chùa Thượng.
3. Thương Na Hòa Tu (Sanakavasa).
- Thương Na Hòa Tu là một nhà truyền giáo lớn của Phật giáo thời sơ khởi. Sự nghiệp của ông gắn với một câu chuyện mang đậm tính triết lý với người học trò là Ưu Ba Cúc Đa. Tượng Thương Na Hòa Tu ở chùa Tây Phương mô tả ông đang quan sát và suy nghĩ về Ưu Bà Cúc Đa, dáng vẻ suy tư, chìm sâu vào triết lý.
4. Ưu Bà Cúc Đa (Upagupta).
- Ưu Bà Cúc Đa là đệ tử của Thương Na Hòa Tu. Tương truyền mỗi khi cứu độ được một người thì ông bỏ một thẻ tre vào trong hang. Về sau hang đá đầy đến tận nóc. Tượng ông tay trái cầm một cuộn sách, tay phải cầm một thẻ tre (đã bị mất), được tạo dáng ngồi nhấp nhổm rất sinh động.
5. Đề Đa Ca (Dhritaka).
- Sự nghiệp của vị Sư tổ Đề Đa Ca thường được biết đến với câu chuyện đầy ý nghĩa về việc truyền lại y bát cho người kế nghiệp là Di Giá Ca. Khuôn mặt tượng Đề Đa Ca ở chùa Tây Phương mang nét đăm chiêu như đang chờ đợi người xứng đáng để trao truyền y bát.
6. Di Giá Ca (Michakha).
- Sư tổ Di Giá Ca là người đã truyền bá Phật pháp ở rất nhiều vùng đất khác nhau. Tượng ông được tạo hình với thế đứng, khuôn mặt biểu lộ sự ngạc nhiên, như phía trước có cảnh lạ hay đang tranh luận với ai đó. Đây là một trong những bức tượng thể hiện cảm xúc sống động nhất trong các tượng La Hán chùa Tây Phương.
7. Bà Tu Mật (Vasumatra).
- Sư tổ Bà Tu Mật khi chưa xuất gia nổi tiếng là người thích kết giao bạn bè, thơ ca, uống rượu, ăn mặc lịch sự… ng của ông được tạc trong tư thế cung kính niệm phật, miệng đang chào hỏi, cầu phúc cho người đối diện, quần áo trang phục chỉnh tề đẹp đẽ.
Sư tổ Phật Đà Nan Đề là người có tài biện luận, giỏi ăn nói, sống thoải mái. Tượng ông được tạo hình rất sinh động, dáng người béo tốt, người ngả ra sau thoải mái, tay cầm cái que đang ngoáy tai, quần áo xuề xòa buông thõng. Khuôn mặt tượng mang đầy nét hoan hỉ, ung dung tự tại.
- Tương truyền, Sư tổ Phật Đà Mật Đa đến 50 tuổi vẫn không nói, không đi ra khỏi nhà, vì chưa nghe được điều gì hay cả, cho đến khi Phật Đà Nan Đề đến tận nhà truyền pháp. Vì thế tượng tạc lúc ông đã lớn tuổi, nhưng lần đầu mới được ngộ giáo lý, thể hiện qua việc đọc cuốn sách, mặt mũi hân hoan.
10. Hiệp Tôn Giả (Parsva).
- Sư tổ Hiệp Tôn Giả luôn tu hành và du hành không bao giờ ngừng nghỉ, không cả đặt lưng ngủ. Truyền thuyết kể khi ông đang đứng tựa một gốc cây thì nhận ra từ xa chú bé sẽ là bậc thánh… Ông đã thuyết pháp cho chú bé ngay dưới gốc cây, về sau chú bé trở thành Sư tổ Phú Na Dạ Xa. Tượng ông được tạo hình ôm lấy thân cây là dựa trên tích truyện này.
11. Mã Minh (Asvagosha).
- Theo truyền thuyết, Sư tổ Mã Minh thì có thể thuyết pháp giáo hóa cho cả các loài động vật. Bức tượng của chùa Tây Phương tạc ông đang thuyết pháp cho Rồng. Trong thực tế, Tổ Mã Minh là một nhà thơ, triết gia nổi tiếng ở khoảng thế kỉ 1, là một trong 4 thánh triết trụ cột của Phật giáo Đại thừa.
12. Ca Tỳ Ma La (Capimala).
- Sư tổ Ca Tỳ Ma La vốn theo tà giáo, đã có tới 3000 đồ đệ, thông hiểu các dị thuyết, sau được Tổ Mã Minh khuất phục rồi lại truyền thừa y bát cho làm Tổ kế nghiệp. Tượng Ca Tỳ Ma La được tạo hình với con rắn quấn quanh. Theo truyền thuyết, có lần mãng xà cuốn quanh thân ông muốn ăn thịt, nhưng Tổ thuyết pháp khiến rắn cũng kính ngưỡng, lại chỉ dẫn ông một bậc thánh còn ẩn trong rừng là Long Thụ. Ca Tỳ Ma La thuyết pháp và truyền cho Long Thụ. Khuôn mặt Sư tổ Ca Tỳ Ma La mang vẻ điềm tĩnh, nghiêm nghị giữa hoàn cảnh bị rắn thành tinh đe dọa.
14. La Hầu La Đa (Rahulata).
- Sư tổ La Hầu La Đa xuất thân trong gia đình trưởng giả giàu có, ăn sung mặc sướng. Tượng ông là tượng duy nhất đội khăn nhà giàu trên đầu, cầm gậy thể hiện uy thế, móng tay rất dài, là biểu thị của người thuộc tầng lớp cao quý. Trái với trang phục phú quý, khuôn mặt tượng mang vẻ đăm chiêu, khổ não, như đang suy tư về bản chất cõi đời. Đây được đánh giá là pho đẹp nhất trong toàn bộ 18 tượng La Hán chùa Tây Phương. Bên cạnh tượng có con hươu nghe thuyết pháp.
15. Tăng Già Nan Đề (Sanghanandi).
- Tăng Già Nan Đề là con Vua nước Bảo Trang Nghiêm, vừa sinh ra đã biết nói, hay tán dương Phật pháp. Khi trưởng thành, dù bị vua cha ngăn cấm, ông đã trốn lên núi để tu Phật, đắc đạo và trở thành một Sư tổ. Tượng ông được tạc trong tư thế ngồi thiền bên bờ sông. Kiểu ngồi thiền của Tổ Tăng Già Nan Đề rất đặc biệt, không phải xếp bằng tròn hai tay trước bụng như thông thường, mà là tư thế dân dã như đang ngồi nói chuyện, mặt mũi nhẹ nhõm.
16. Già Da Xá Đa (Samghayacas).
- Sư tổ Già Da Xá Đa khi còn bé thường mang một cái gương để soi lại chính mình, cho đến khi đắc đạo vẫn còn có chiếc gương đó mang theo. Vì thế tượng của Tổ được tạc trong tư thế đang bước đi, tay cầm chiếc gương tròn quay về phía sau, hai ống tay áo bay phất phơ rất sống động.
17. Cưu Ma La Đa (Kumarata).
- Theo truyền thuyết, Sư tổ Cưu Ma La Đa vốn là một vị tu tiên trên trời, phạm lỗi mà phải xuống cõi người. Tượng của Tổ được tạo với dáng vẻ rất béo tốt ung dung, miệng nhoẻn cười, tay cầm một bông hoa to.
18. Xà Dạ Đa (Jayata).
- Sư tổ Xà Dạ Đa sinh thời nổi tiếng là người trí tuệ thâm sâu. Tượng được tạc với tư thế rất lạ: cơ thể gày giơ xương, tay đang cầm cái que gãi lưng, có vẻ rất ngứa ngảy khổ sở. Tuy vậy, tượng có đầu rất to, thể hiện một trí tuệ siêu việt vượt qua mọi sự hạn chế của thể xác.
Long Thụ
- Theo truyền thuyết thì Phật Thích Ca cất bộ kinh Hoa Nghiêm ở Long cung dưới đáy biển trong 600 năm. Long Thụ đã dùng thần thông xuống tận Long cung lấy bộ kinh đó. Vì vậy, cạnh tượng Long Thụ có con rồng đội kinh là để mô tả truyền thuyết này.
Be the first to review “18 Vị La Hán Chùa Tây Phương”